Biến chứng nguy hiểm của viêm loét dạ dày tá tràng

Loét dạ dày tá tràng trong cuộc sống hiện nay đã trở thành một căn bệnh cực kì phổ biến nhất là đối với nam giới, những người thường xuyên phải tham gia những cuộc nhậu hoặc sử dụng chất kích thích. Biến chứng của loét dạ dày tá tràng rất đa dạng và nguy hiểm, đặc trưng như xuất huyết tiêu hóa, thủng dạ dày hay xơ, teo hẹp ống tiêu hóa, thậm chí có thể dẫn đến ung thư.

loet-da-day-ta-trang

Xuất huyết tiêu hóa

Thường gặp nhất trong các biến chứng nhưng khó đánh giá được tần số chính xác của mỗi đợt cấp. Xuất huyết tiêu hóa gặp ở 15 – 20% bệnh nhân loét dạ dày tá tràng. Loét tá tràng thường chảy máu 17% trong khi con số này ở bệnh nhân loét dạ dày là 12%.

Biến chứng chảy máu có thể xuất hiện thành những đợt cấp, tuy nhiên thường gặp hơn cả là các đợt chảy máu ẩn. Chảy máu kéo dài gây thiếu máu mạn.

Đánh giá mức độ trầm trọng của chảy máu thường dựa vào mạch, huyết áp, lượng nước tiểu, tình trạng thiếu máu lên não, chỉ số hồng cầu, Hct, Hb và lượng máu cần bù để duy trì các chỉ số huyết động.

Chẩn đoán băng nội soi cần được thực hiện sớm ngay khi bệnh nhân thoát khỏi cơn sốc. Tần suất tái lát của xuất huyết tiêu hóa là 20%, tiên lượng tốt nếu chảy máu tự khỏi trong 6 giờ đầu.

Nguy cơ tái phát của biến chứng này được đánh giá là cao (>50%) khi:

  • Chảy máu từ tiểu động mạch
  • Thấy được mạch máu tại nền ổ loét
  • Chảy máu kéo dài > 72 giờ

Điểu trị: Trong chảy máu có sốc hoặc hồng câu < 2,5, Hct < 25% thì bệnh nhân cần được điều trị tích cực bằng truyền máu, bù dịch để cân bằng huyết động, duy trì huyết áp tâm thu ổn định không dao động quá 10mmHg. Đồng thời bệnh nhân cần được kháng tiết bằng đường tiêm, sử dụng các thuốc băng niêm mạc ít hiệu quả nếu chảy máu động mạch. Lúc này các biện pháp cầm máu vật lý sẽ phát huy hiệu quả như:

  • Rửa dạ dày bằng nước lạnh, nước ấm hoặc nước muối đẳng trương.
  • Nhiệt đông và quang đông tại chỗ
  • Dùng thuốc cầm máu bằng co mạch tại chỗ (andrenalin, đặc biệt thường dùng phối hợp andrenalin với thuốc làm xơ hóa mạch máu như polidoquinon)

Nếu các biện pháp trên không có hiệu quả thì cần phẫu thuật để cầm máu cho bệnh nhân đồng thời kết hợp cắt bỏ phần bị loét.

Thủng dạ dày

chay-mau-tieu-ho

Khi loét ăn sâu vào thành dạ dày tá tràng có thể gây ra biến chứng thủng. Đây là biến chứng hay gặp thứ 2 chỉ sau chảy máu với 6% số trường hợp. Thường gặp ở đàn ông nhiêu hơn phụ nữ. Loét ở mặt trước bờ cong nhỏ thì gây thủng vào xoang phúc mạc lớn, loét mặt sau thì thủng vào cơ quan gần đó hoặc hậu cung mạc nối.

Triệu chứng: đau dữ dội kiểu dao đâm sau đó là các phản ứng viêm phúc mạc và nhiễm trung nhiễm độc. Chụp phim bụng hoặc siêu âm có liềm hơi dưới cơ hoành.

Điều trị: cấp cứu hút dịch vị, truyền dịch, sử dụng kháng sinh để ngăn chặn viêm lây lan. Phần lớn các trường hợp bị thủng cần được cấp cứu nhanh và mổ khâu ổ thủng loét.

Loét xuyên thấu dính vào cơ quan kế cận

Thường gặp là ở tụy, mạc nối nhỏ, đường mật, gan, mạc nối lớn, mạc treo đại tràng, đại tràng ngang thường gặp lá loét mặt sau hoặc loét bờ cong lớn.

Các trường hợp loét này thường đau dữ dội ít đáp ứng với điều trị, loét xuyên vào tụy thường đau ra sau lưng hoặc biểu hiện viêm tụy cấp, loét thủng vào đường mật chụp đường mật hoặc siêu âm có hơi trong đường mật hoặc baryte vào đường mật.

Nếu rò dạ dày đại tràng gây tiêu chảy phân sống và kém hấp thu, cần điều trị phẫu thuật.

Hẹp môn vị

Thường gặp khi ổ loét nằm cạnh môn vị. Gây các phản ứng co thắt môn vị, viêm gây phù nề và làm hep môn vị.

Triệu chứng:

  • Nặng bụng sau ăn
  • Nôn ra thức ăn cũ >24 giờ
  • Dấu óc ách dày khi đói và dấu Bouveret (+)
  • Gầy, biểu hiện mất nước

Xét nghiệm:

  • Xét nghiệm cô máu và suy thận chức năng
  • Nhiễm kiềm do mất acid HCl
  • Kali máu giảm do mất HCl

Điều trị:

Bù nước và điện giải dựa theo điện giải đồ Natri, Kali. Nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch, hút dạ dày trong những ngày đầu để tái lập trương lực cơ và giảm kích thích niêm mạc, đồng thời cho thêm Metoclopramide, hoặc Domperidol. Điều trị nguyên nhân từ vết loét.

Loét ung thư hóa

Loét ung thư hóa thường gặp ở 5 – 10% bệnh nhân khi thời gian loát kéo dài > 10 năm. Các nghiên cứu chỉ ra rằng viêm mạn hang vị nhất là thể teo, thường đưa đến ung thư hóa nhiều hơn (30%), còn loét tá tràng rất hiếm khi bị ung thư hóa.

Theo Cuocsongkhoe.com