Đại thể và vi thể trong nhận biết viêm dạ dày mãn tính

Viêm dạ dày mạn tính là tổng hợp của một loạt các rối loạn trên niêm mạc dạ dày, gây ra bởi các phản ứng viêm do niêm mạc dạ dày đã bị tổn thương. Chẩn đoán viêm dạ dày mạn là một chẩn đoán mô học, không phải thực thể lâm sàng. Do đó, bài viết này sẽ cung cấp những khái niệm về đại thể và vi thể của bệnh.

viem-da-day-man-tinh

1. Vi thể

Những tổn thương cơ bản về mặt vi thể bao gồm:

 Biểu mô bề mặt:

Các tế bào biểu mô bề mặt thường chỉ bị tổn thương nhẹ. Khi có sự phá hủy quá mức tế bào biểu mô kết hợp quá trình tăng tái tạo để bù đắp sẽ tạo nên nhú lồi giữa các khe, có thể tạo thành polyp tăng sản.
Biểu mô có thể bị bong từng vùng cục bộ, tiếp theo là sự hoại tử và ăn mòn tiến triển.

Các khe tuyến:

  • Các tế bào khe tuyến tăng sinh để bù đắp cho các tế bào biểu mô bị hoại tử.
  • Các tế bào trở nên mất chức năng, kiềm tính, kém tiết, nhân tế bào không đều.
  • Khe tuyến không thẳng, tạo “xoắn nút chai”. Các tế bào từ hình trụ có thể chuyển thành hình vuông.
  • Tế bào khe có thể bị dị sản thành tế bào ruột, tế bào mâm khía và những tế bào hình chén. Sự dị sản này có thể kèm theo sự có mặt của tế bào Paneth và tạo nên ở bề mặt những nhung mao thực sự.

 Tuyến:

Tổn thương cơ bản ở vùng thân vị và hang vị không giống nhau.

Niêm mạc thân vị: bình thường chiều cao tuyến thân vị bằng 4/5 chiều cao niêm mạc. Các tuyến thân vị số lượng tế bào thành và tế bào chính giảm, đặc biệt với tế bào thành là những tế bào kém bền vững. Thay thế tế bào thành và tế bào chính là những tế bào kém biệt hoá, tế bào vuông, tế bào thấp dẹt có thể hình thành những nang nhỏ. Ở thân vị có thể có dị sản hang vị và như vậy vùng hang vị được mở rộng hơn.

  • Niêm mạc hang vị: số lượng tuyến hang vị giảm, tế bào tuyến được thay thế bằng những tế bào kém biệt hoá hoặc bằng sự dị sản ruột. Dị sản ruột vùng hang vị hay gặp hơn so với thân vị.
  • Lớp đệm: lớp đệm tăng thể tích rõ do sự xâm nhập các thành phần tế bào. Trong đó chủ yếu là lympho – tương bào, phân bố lan toả hoặc đôi khi tập trung thành đám hay nang cùng với sự tăng lên của các nang lympho.

Sự có mặt nhiều hay ít của tế bào bạch cầu đa nhân trung tính sẽ cho phép đánh gia mức độ hoạt động của viêm dạ dày mạn. Viêm hoạt động thì bạch cầu đa nhân tăng, có thể tập trung khu trú nhiều hơn trong lớp đệm, giữa khe hoặc cả ở lớp biểu mô thậm chí lan rộng ra toàn bộ niêm mạc. Ở giai đoạn cuối, số lượng bạch cầu đa nhân tại vùng tổn thương giảm do có dấu hiệu của sự xơ hóa sau viêm.

2. Đại thể

Đại thể là những hình ảnh quan sát được bằng nội soi và thường không có liên quan đến những dấu hiệu vi thể (mô bệnh học). Trong viêm dạ dày mạn, hình ảnh đại thể thường đặc trung bằng những nếp nhăn lớn nhưng hình ảnh mô học lại là viêm dạ dày teo. Ngược lại, hình ảnh nội soi niêm mạc có vẻ teo với sự mất nếp nhăn, mô học lại bình thường. Tương tự không có mối tương quan nào giữa mức độ teo với chiều cao của niêm mạc về mặt mô học. Tuy nhiên để có sự thống nhất trong chẩn đoán, năm 1990 Hội nghị Quốc tế về tiêu hoá ở Sydney Australia đã đưa ra các tiêu chuẩn đánh giá các tổn thương như : phù nề, xung huyết, sức bền của niêm mạc, sự tiết dịch, trợt, teo, phì đại, xuất huyết và trên cơ sở tổn thương nổi trội đã phân viêm dạ dạy mạn tính thành 7 type chính:

  1. Viêm phù nề, xung huyết : niêm mạc dạ dày mất tính nhẵn bóng, hơi lần sần, có những mảng xung huyết, dễ chảy máu khi chạm đèn soi.
  2. Viêm trợt phẳng : niêm mạc dạy dày có nhiều điểm trợt nông trên có giả mạc bám hoặc những vết trợt nông trên niêm mạc.
  3. Viêm trợt lồi: có những mắt nổi gồ lên trên bề mặt niêm mạc, ở đỉnh hơi lõm xuống trông giống như nốt đậu mùa nên trước đây được gọi là viêm dạ dày dạng đậu mùa.
  4. Viêm chảy máu : có những chấm xuất huyết hoặc đám xuất huyết trên bề mặt niêm mạc dạ dày hoặc bầm tím do chảy máu trong niêm mạc.
  5. Phì đại nếp niêm mạc : Niêm mạc dạ dày mất tính nhẵn bóng, nổi gồ lên và không xẹp xuống khi bơm hơi.
  6. Teo niêm mạc : các nếp niêm mạc teo và mỏng, nhìn thấy các mạch máu ở niêm mạc.
  7. Viêm trào ngược dịch mật : niêm mạc phù nề, xung huyết có nhiều dịch mật trong dạ dày.

Theo Cuocsongkhoe.com